Dán nhãn năng lượng: Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy dán nhãn năng lượng tại Việt Nam nói chung, Tp Hồ Chí Minh nói riêng

Hoạt động dán nhãn năng lượng nhằm biến các định hướng, chính sách của nhà nước về tiết kiệm năng lượng trong sản xuất, xuất nhập khẩu, thương mại… thành áp dụng thực tế trên cả diện rộng và chiều sâu.

Dán nhãn năng lượng tại Việt Nam được triển khai theo hình thức tự nguyện từ năm 2006 và bắt buộc phải thực hiện (đối với một số phương tiện, thiết bị) kể từ 1/7/2013.

Thực trạng dán nhãn năng lượng tại Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến tháng 6/2018, đã có khoảng 15.000 mã sản phẩm thuộc 23 chủng loại thiết bị đã được dán nhãn năng lượng từ 01 sao đến 05 sao. Lượng sản phẩm bán ra của các thiết bị gia dụng có dán nhãn năng lượng như quạt điện, máy thu hình, máy điều hòa không khí, tủ lạnh gia dụng chiếm hơn 90% tổng số sản phẩm bán ra trên thị trường. Dự báo lượng điện tiết kiệm từ các sản phẩm dán nhãn năng lượng sẽ đạt khoảng 10% vào năm 2020 và con số này có thể lên tới 30% vào năm 2030.

Nhãn năng lượng đã bước đầu tạo được thói quen tiêu dùng, mua sắm các sản phẩm hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng. Người tiêu dùng khi chọn mua sản phẩm trước đây chỉ căn cứ vào giá cả, mẫu mã thì nay đã chủ động tìm hiểu các thông tin về kỹ thuật, mức tiêu thụ năng lượng để lựa chọn sản phẩm bởi điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế khi tiết kiệm đáng kể lượng điện tiêu thụ trong quá trình sử dụng. Dán nhãn năng lượng không chỉ đáp ứng yêu cầu tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, khuyến khích cộng đồng sử dụng các sản phẩm sử dụng năng lượng hiệu suất cao, từng bước loại bỏ các sản phẩm có hiệu suất thấp, ngăn chặn hàng giả, hàng kém chất lượng, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền vững.

Hoạt động dán nhãn năng lượng nhằm biến các định hướng, chính sách của nhà nước về tiết kiệm năng lượng trong sản xuất, xuất nhập khẩu, thương mại… thành áp dụng thực tế trên cả diện rộng và chiều sâu. Có hai nội dung song hành, không tách rời và thường được gọi chung là “Chương trình xây dựng tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng và dán nhãn năng lượng”.

Thực trạng dán nhãn năng lượng tại TP.Hồ Chí Minh

Lộ trình thực hiện dán nhãn năng lượng

Lộ trình thực hiện dán nhãn năng lượng được quy định tại Quyết định số 51/2011/QĐ-TTg quy định danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng, áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện. Sau đó từ 25/4/2017 thực hiện theo Quyết định 04/2017/QĐ-TTg (thay thế Quyết định 51/2011 nói trên). Nếu chưa tính đến nhóm thiết bị ngành giao thông vận tải thì lộ trình đối với 3 nhóm sản phẩm còn lại được chi tiết hóa như sau:

Để phù hợp với thực tế phát triển tiến bộ công nghệ và mức độ nhập khẩu, phổ biến trên thị trường đối với các nhóm phương tiện, thiết bị khác nhau, lộ trình thực hiện dán nhãn năng lượng cũng khác nhau, căn cứ vào mức độ phổ biến trong thực tế sử dụng, mức độ phát triển của công nghệ và thời gian chuẩn bị phân phối ra thị trường các đời sản phẩm sử dụng năng lượng có tính năng tiết kiệm tiến bộ hơn.

Ngoài các phương tiện, thiết bị thuộc diện bắt buộc, nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện việc dán nhãn năng lượng tự nguyện đối với phương tiện, thiết bị không thuộc danh mục quy định, ví dụ các dòng sản phẩm nổi trội có cấp độ trên 5 sao, đi tiên phong trên thị trường. Hoạt động này rất cần sự động viên, vinh danh, khích lệ thích đáng của nhà nước để hình thành những “ngọn cờ“ kéo theo sự cạnh tranh, lôi kéo các sản phẩm cùng loại tiến theo hướng ngày càng tiên tiến, bền vững giống như chương trình đã và đang được khích lệ ở các nước phát triển: Sản phẩm hàng đầu (Top-Runner) ở Nhật Bản, Ngôi sao Năng lượng EU, Ngôi sao Năng lượng Mỹ…

Quy định pháp lý cũng đặc biệt nhấn mạnh đến việc từng bước hạn chế sản xuất, nhập khẩu và đưa vào tiêu dùng những sản phẩm, trang thiết bị công nghệ cũ, mức hiệu suất năng lượng tối thiểu kém, ví dụ như: (i) Đối với nhóm thiết bị gia dụng: Từ ngày 01/01/2014, không được phép nhập khẩu và sản xuất các thiết bị có hiệu suất năng lượng thấp hơn mức hiệu suất năng lượng tối thiểu. (ii) Đối với các nhóm thiết bị công nghiệp, thiết bị văn phòng và thương mại: Từ ngày 01/01/2015, không được phép nhập khẩu và sản xuất các thiết bị có mức hiệu suất năng lượng thấp hơn mức hiệu suất năng lượng tối thiểu. (iii) Đối với các sản phẩm đèn tròn (đèn sợi đốt): Từ ngày 01/01/2013, không được nhập khẩu, sản xuất và lưu thông loại đèn có công suất lớn hơn 60W.

Một số giải pháp tạo thuận lợi và thúc đẩy dán nhãn năng lượng

Chương trình dán nhãn năng lượng đã đạt được nhiều kết quả tích cực như nâng cao nhận thức cho người dân nhận diện sản phẩm tiết kiệm năng lượng, góp phần loại bớt dần các thiết bị hiệu quả thấp, tiêu tốn năng lượng, chuyển dịch thị trường sang các sản phẩm ít tiêu hao năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần giảm tiêu thụ điện…

Nhưng trong triển khai Chương trình này còn khá nhiều bất cập, trong đó có nhận thức của cộng đồng và doanh nghiệp còn hạn chế; chưa có các giải pháp quản lý và công nghệ đủ mạnh; doanh nghiệp khó khăn về vốn hoặc về vay tín dụng ưu đãi cho các dự án tiết kiệm năng lượng; truyền thông và đào tạo về tiết kiệm năng lượng còn hạn chế, không kịp thời; chưa đủ sự giúp đỡ, hỗ trợ quốc tế…

Ngoài ra, việc thực hiện lộ trình dán nhãn năng lượng còn gặp khó khăn về nguồn nhân lực và nguồn kinh phí triển khai, cơ sở hạ tầng thử nghiệm, các tiêu chuẩn, thiết bị thử nghiệm hiệu suất năng lượng thiếu và không đồng bộ, các văn bản chính sách hỗ trợ chưa hoàn thiện.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh với mức độ và tần suất hoạt động của doanh nghiệp, dán nhãn năng lượng còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý với lực lượng mỏng để hỗ trợ theo dõi hơn 537.108 doanh nghiệp đã thực hiện dán nhãn năng lượng thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trên địa bàn.

Để nâng cao hiệu quả thực hiện các hoạt động dán nhãn năng lượng cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, nhóm giải pháp về tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản điều hành quản lý, tác nghiệp

Một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) tương đối đầy đủ đã được xây dựng và ban hành, tạo thành khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh theo định hướng thống nhất các hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết  kiệm và hiệu quả (SDNL TK&HQ); quy định cụ thể các chế tài quản lý hoạt động của chương trình áp dụng Tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng và Dán nhãn năng lượng cho các phương tiện, thiết bị sử dụng nhiều năng lượng và phương tiện, thiết bị sử dụng phổ biến trong đời sống; xác định cụ thể lộ trình thực hiện.

Cho đến năm 2018, trong lĩnh vực này đã ban hành được trên 20 VBPL ở cấp vĩ mô (bao gồm các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của các Bộ, ngành liên quan); 30 bộ Tiêu chuẩn MEPS áp dụng cho các nhóm thiết bị mục tiêu; 07 Quyết định chỉ định cơ sở thử nghiệm; 16 văn bản hướng dẫn khác. Trong đó đặc biệt phải nói đến văn bản pháp luật bao trùm lĩnh vực này là Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả số 50/2010/QH12, được Quốc hội thông qua tháng 6/2010 và có hiệu lực từ 01/01/2011 (sau đây gọi tắt là Luật TKNL), bên dưới đó là Nghị định số 21/2011/NĐ-CP ngày 29/3/2011 của Chính phủ, quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các Quyết định cấp Thủ tướng Chính phủ, các Thông tư cấp Bộ …

Mặc dù hệ thống VBQPPL trong lĩnh vực này tương đối đầy đủ, nhưng phải nhìn nhận rằng việc thực thi và kết quả mang lại chưa được như mong muốn. Do đó, trên cơ sở Luật TKNL và các văn bản dưới Luật, cần tiếp tục rà soát, bổ sung hoàn thiện hệ thống các văn bản điều hành quản lý, tác nghiệp để thực sự đưa được các quy định pháp lý vào thực tế sản xuất, kinh doanh, đồng thời đưa ra được những chế tài khả thi để loại bỏ dần các công nghệ sử dụng năng lượng có hiệu suất thấp trên thị trường và thúc đẩy các công nghệ hiệu suất cao. Trong đó chú trọng sửa đổi kịp thời một số văn bản có trước khi Luật TKNL có hiệu lực hoặc bộc lộ nhiều bất cập để phù hợp với điều kiện mới. Một ví dụ điển hình là năm 2016 Bộ Công Thương đã làm được một bước tiến lớn về cải cách hành chính trong lĩnh vực này, đã ban hành được Thông tư 36/2016/TT-BCT vào tháng 12/2016 quy định dán nhãn năng lượng cho các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng, thay thế cho Thông tư 07/2012/TT-BCT (vốn rất rườm rà về thủ tục hành chính, gây nhiều khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp).những sửa đổi cần thiết cho dán nhãn NL

Chương trình mục tiêu quốc gia về Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được ban hành trong hai giai đoạn, 2006-2011 và 2012-2015, là công cụ cực kỳ quan trọng trong điều hành và đem lại những thành quả đáng ghi nhận. Tuy Chương trình bị gián đoạn trong các năm 2016-2019, nhưng vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 – 2030 để tiến hành triển khai trong hai giai đoạn, 2020-2025 và 2025-2030 (Quyết định số 280/QĐ-TTg ngày 29/3/2019).

Trong các công cụ điều hành quản lý và tác nghiệp, một biện pháp rất quan trọng là thúc đẩy xây dựng các cơ chế tài chính thích hợp, vừa mang tính khuyến khích vừa có tác dụng hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư thực hiện giải pháp tiết kiệm năng lượng. Hiện tại chúng ta vẫn thiếu cơ chế hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư thay thế dây chuyền công nghệ lạc hậu bằng dây chuyền công nghệ hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng; thiếu cơ chế giải quyết được tình trạng doanh nghiệp cần vốn nhưng không tiếp cận được những khoản vay tín dụng ưu đãi cho các dự án tiết kiệm năng lượng.

Một biện pháp cần thiết trong quản lý nữa là cần có văn bản chế tài để tăng cường công tác giám sát các cơ sở lớn sử dụng năng lượng trọng điểm, đảm bảo công tác báo cáo tình trạng sử dụng năng lượng và kế hoạch sử dụng năng lượng hàng năm nhằm giảm suất tiêu hao năng lượng trên đơn vị sản phẩm. Đồng thời cần đưa ra những chính sách phù hợp, khả thi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ – trong khả năng hạn chế cả về tài chính, nhân lực, kinh nghiệm quản lý – cũng có thể từng bước áp dụng được các biện pháp tiết kiệm năng lượng và thiết thực hưởng lợi từ việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, qua đó vừa phát triển được doanh nghiệp mình theo hướng bền vững, vừa góp phần tiết kiệm năng lượng cho quốc gia, cho xã hội.

Thứ hai, nhóm giải pháp về xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ

Như trên đã nói, hai mặt không tách rời nhau là dán nhãn năng lượng song hành với xây dựng tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng. Xây dựng tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng cho mỗi loại thiết bị (dự kiến được dán nhãn) là điều kiện tiên quyết phục vụ cho công việc dán nhãn.

Previous articleDán nhãn năng lượng: Giải pháp tiết kiệm năng lượng hiệu quả và chính sách của Thành phố Hồ Chí Minh
Next articleHệ thống tiết kiệm năng lượng sử dụng thiết bị trao đổi nhiệt G-HEX